1. Khối 10
  2. Ngữ văn 10 - Tập 1 - Kết nối tri thức với cuộc sống
  3. Bài 2 Vẻ đẹp của thơ ca
  4. Đọc
  5. Đọc hiểu văn bản "Thu hứng"

  • Đọc văn bản Thu hứng và làm theo yêu cầu.
    THU HỨNG
    Phiên âm
    Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
    Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
    Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
    Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
    Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
    Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
    Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
    Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
    Dịch nghĩa
    Sương móc trắng xóa làm tiêu điều cả rừng cây phong,
    Núi Vu, kẽm Vu hơi thu hiu hắt.
    Giữa lòng sông, sóng tung vọt trùm bầu trời,
    Từ trên cửa ải, gió mây sà xuống khiến mặt đất âm u.
    Khóm cúc nở hoa đã hai lần làm tuôn rơi nước mắt ngày trước,
    Con thuyền lẻ loi thắt chặt mãi tấm lòng nhớ về vườn cũ.
    Chỗ nào cũng rộn ràng dao thước để may áo rét,
    Về chiều, từ trên thành Bạch Đế cao, tiếng chày nện vải nghe càng dồn dập.
    Dịch thơ
    Bản dịch 1
    Lác đác rừng phong hạt móc sa,
    Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
    Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
    Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
    Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
    Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
    Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
    Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
    (Nguyễn Công Trứ dịch, Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội 2014, tr.146)
    Bản dịch 2
    Móc trắng rừng phong vẻ úa gầy,
    Vu sơn, Vu giáp khí thu dày.
    Lòng sông sóng tận lưng trời nhảy,
    Đầu ải mây sà mặt đất bay.
    Lệ cũ nở hai mùa cúc đó,
    Lòng quê buộc một chiếc thuyền đây.
    Nơi nơi áo lạnh đòi dao thước,
    Bạch Đế thành hôm rộn tiếng chày.
    (Khương Hữu Dụng dịch, Thơ Đỗ Phủ, NXB Văn học, Hà Nội, 1962, tr.229)
    Điền vào chỗ trống những nội dung là đặc trưng của thơ Đường luật được thể hiện qua bài Thu hứng.
    Đề – thực – luận – kết
    câu 1 (lâm) – câu 2 (sâm) – câu 4 (âm) – câu 6 (tâm) – câu 8 (châm).
    Bài thơ viết theo luật trắc (tiếng thứ hai của câu 1 là thanh trắc, không phá cách), tuân thủ theo công thức ở cả chiều ngang (từng dòng thơ) và chiều dọc (với các cặp câu thơ đi liền nhau, tức là niêm).
    Từ loại và cú pháp: đối chỉnh; ý: có biểu hiện đối “tương thành”, tức nội dung của cả hai câu bổ sung cho nhau.
    Bố cục
    Cách gieo vần
    Luật bằng trắc
    Phép đối

    Đáp án
    THU HỨNG
    Phiên âm
    Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
    Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
    Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
    Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
    Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
    Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
    Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
    Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
    Dịch nghĩa
    Sương móc trắng xóa làm tiêu điều cả rừng cây phong,
    Núi Vu, kẽm Vu hơi thu hiu hắt.
    Giữa lòng sông, sóng tung vọt trùm bầu trời,
    Từ trên cửa ải, gió mây sà xuống khiến mặt đất âm u.
    Khóm cúc nở hoa đã hai lần làm tuôn rơi nước mắt ngày trước,
    Con thuyền lẻ loi thắt chặt mãi tấm lòng nhớ về vườn cũ.
    Chỗ nào cũng rộn ràng dao thước để may áo rét,
    Về chiều, từ trên thành Bạch Đế cao, tiếng chày nện vải nghe càng dồn dập.
    Dịch thơ
    Bản dịch 1
    Lác đác rừng phong hạt móc sa,
    Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
    Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
    Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
    Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
    Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
    Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
    Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
    (Nguyễn Công Trứ dịch, Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội 2014, tr.146)
    Bản dịch 2
    Móc trắng rừng phong vẻ úa gầy,
    Vu sơn, Vu giáp khí thu dày.
    Lòng sông sóng tận lưng trời nhảy,
    Đầu ải mây sà mặt đất bay.
    Lệ cũ nở hai mùa cúc đó,
    Lòng quê buộc một chiếc thuyền đây.
    Nơi nơi áo lạnh đòi dao thước,
    Bạch Đế thành hôm rộn tiếng chày.
    (Khương Hữu Dụng dịch, Thơ Đỗ Phủ, NXB Văn học, Hà Nội, 1962, tr.229)
    Điền vào chỗ trống những nội dung là đặc trưng của thơ Đường luật được thể hiện qua bài Thu hứng.
    Đề – thực – luận – kết
    câu 1 (lâm) – câu 2 (sâm) – câu 4 (âm) – câu 6 (tâm) – câu 8 (châm).
    Bài thơ viết theo luật trắc (tiếng thứ hai của câu 1 là thanh trắc, không phá cách), tuân thủ theo công thức ở cả chiều ngang (từng dòng thơ) và chiều dọc (với các cặp câu thơ đi liền nhau, tức là niêm).
    Từ loại và cú pháp: đối chỉnh; ý: có biểu hiện đối “tương thành”, tức nội dung của cả hai câu bổ sung cho nhau.
    Bố cục
    Cách gieo vần
    Luật bằng trắc
    Phép đối

    Giải thích
    HS xem lại phần Kiến thức Ngữ Văn, mục 5.2, kết hợp với đọc hiểu bài Thu hứng, để chỉ ra được những đặc điểm của thơ Đường luật thể hiện trong bài thơ
    1/1

  • Đọc văn bản Thu hứng và làm theo yêu cầu.
    THU HỨNG
    Phiên âm
    Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
    Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
    Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
    Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
    Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
    Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
    Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
    Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
    Dịch nghĩa
    Sương móc trắng xóa làm tiêu điều cả rừng cây phong,
    Núi Vu, kẽm Vu hơi thu hiu hắt.
    Giữa lòng sông, sóng tung vọt trùm bầu trời,
    Từ trên cửa ải, gió mây sà xuống khiến mặt đất âm u.
    Khóm cúc nở hoa đã hai lần làm tuôn rơi nước mắt ngày trước,
    Con thuyền lẻ loi thắt chặt mãi tấm lòng nhớ về vườn cũ.
    Chỗ nào cũng rộn ràng dao thước để may áo rét,
    Về chiều, từ trên thành Bạch Đế cao, tiếng chày nện vải nghe càng dồn dập.
    Dịch thơ
    Bản dịch 1
    Lác đác rừng phong hạt móc sa,
    Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
    Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
    Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
    Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
    Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
    Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
    Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
    (Nguyễn Công Trứ dịch, Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội 2014, tr.146)
    Bản dịch 2
    Móc trắng rừng phong vẻ úa gầy,
    Vu sơn, Vu giáp khí thu dày.
    Lòng sông sóng tận lưng trời nhảy,
    Đầu ải mây sà mặt đất bay.
    Lệ cũ nở hai mùa cúc đó,
    Lòng quê buộc một chiếc thuyền đây.
    Nơi nơi áo lạnh đòi dao thước,
    Bạch Đế thành hôm rộn tiếng chày.
    (Khương Hữu Dụng dịch, Thơ Đỗ Phủ, NXB Văn học, Hà Nội, 1962, tr.229)
    “Thu hứng là một trong những bài thơ tiêu biểu của thơ Đường luật”.
    Hãy chứng minh nhận định trên dựa vào những đặc sắc của bài thơ ở phương diện nội dung và nghệ thuật.

    Đáp án
    THU HỨNG
    Phiên âm
    Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
    Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
    Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
    Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
    Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
    Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
    Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
    Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
    Dịch nghĩa
    Sương móc trắng xóa làm tiêu điều cả rừng cây phong,
    Núi Vu, kẽm Vu hơi thu hiu hắt.
    Giữa lòng sông, sóng tung vọt trùm bầu trời,
    Từ trên cửa ải, gió mây sà xuống khiến mặt đất âm u.
    Khóm cúc nở hoa đã hai lần làm tuôn rơi nước mắt ngày trước,
    Con thuyền lẻ loi thắt chặt mãi tấm lòng nhớ về vườn cũ.
    Chỗ nào cũng rộn ràng dao thước để may áo rét,
    Về chiều, từ trên thành Bạch Đế cao, tiếng chày nện vải nghe càng dồn dập.
    Dịch thơ
    Bản dịch 1
    Lác đác rừng phong hạt móc sa,
    Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
    Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
    Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
    Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
    Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
    Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
    Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
    (Nguyễn Công Trứ dịch, Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội 2014, tr.146)
    Bản dịch 2
    Móc trắng rừng phong vẻ úa gầy,
    Vu sơn, Vu giáp khí thu dày.
    Lòng sông sóng tận lưng trời nhảy,
    Đầu ải mây sà mặt đất bay.
    Lệ cũ nở hai mùa cúc đó,
    Lòng quê buộc một chiếc thuyền đây.
    Nơi nơi áo lạnh đòi dao thước,
    Bạch Đế thành hôm rộn tiếng chày.
    (Khương Hữu Dụng dịch, Thơ Đỗ Phủ, NXB Văn học, Hà Nội, 1962, tr.229)
    “Thu hứng là một trong những bài thơ tiêu biểu của thơ Đường luật”.
    Hãy chứng minh nhận định trên dựa vào những đặc sắc của bài thơ ở phương diện nội dung và nghệ thuật.

    Giải thích
    Đáp án:
    Về nội dung: bài thơ thể hiện bức tranh thu thê lương, ảm đạm. Trên bức tranh thu ấy nổi bật tình thu của người lữ khách cô đơn, da diết nhớ quê hương và những dự cảm trước thời cuộc đảo điên, xoay chuyển của buổi loạn li. Cảnh và tình ấy mang nét riêng của hồn thơ Đỗ Phủ, ko giống với bức tranh thu, tình thu mang màu sắc ước lệ trong thơ xưa.
    Về nghệ thuật: bài thơ tiêu biểu cho đặc trưng của thơ Đường luật với những quy định chặt chẽ về kết cấu, niêm luật, vần, đối…
    HS xem lại phần Kiến thức Ngữ văn mục 5.2 về đặc trưng của thơ Đường luật và vận dụng kiến thức kĩ năng đã có về văn bản để chỉ ra được nét đặc trưng, tiêu biểu của bài thơ.
    1/1

  • Đọc văn bản Thu hứng và làm theo yêu cầu.
    THU HỨNG
    Phiên âm
    Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
    Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
    Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
    Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
    Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
    Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
    Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
    Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
    Dịch nghĩa
    Sương móc trắng xóa làm tiêu điều cả rừng cây phong,
    Núi Vu, kẽm Vu hơi thu hiu hắt.
    Giữa lòng sông, sóng tung vọt trùm bầu trời,
    Từ trên cửa ải, gió mây sà xuống khiến mặt đất âm u.
    Khóm cúc nở hoa đã hai lần làm tuôn rơi nước mắt ngày trước,
    Con thuyền lẻ loi thắt chặt mãi tấm lòng nhớ về vườn cũ.
    Chỗ nào cũng rộn ràng dao thước để may áo rét,
    Về chiều, từ trên thành Bạch Đế cao, tiếng chày nện vải nghe càng dồn dập.
    Dịch thơ
    Bản dịch 1
    Lác đác rừng phong hạt móc sa,
    Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
    Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
    Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
    Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
    Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
    Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
    Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
    (Nguyễn Công Trứ dịch, Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội 2014, tr.146)
    Bản dịch 2
    Móc trắng rừng phong vẻ úa gầy,
    Vu sơn, Vu giáp khí thu dày.
    Lòng sông sóng tận lưng trời nhảy,
    Đầu ải mây sà mặt đất bay.
    Lệ cũ nở hai mùa cúc đó,
    Lòng quê buộc một chiếc thuyền đây.
    Nơi nơi áo lạnh đòi dao thước,
    Bạch Đế thành hôm rộn tiếng chày.
    (Khương Hữu Dụng dịch, Thơ Đỗ Phủ, NXB Văn học, Hà Nội, 1962, tr.229)
    Sau cảnh nơi nơi rộn ràng may áo rét và tiếng chày nện vải dồn dập, khẩn trương ẩn chứa nỗi niềm gì của nhân vật trữ tình?
    Cuộc sống đầm ấm, bình dị ở quê người
    Nỗi nhớ quê da diết của người lữ khách
    Khát vọng hạnh phúc nơi đất khách quê người
    Mùa thu đang vào những thời khắc lạnh lẽo

    Đáp án
    THU HỨNG
    Phiên âm
    Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
    Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
    Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
    Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
    Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
    Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
    Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
    Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
    Dịch nghĩa
    Sương móc trắng xóa làm tiêu điều cả rừng cây phong,
    Núi Vu, kẽm Vu hơi thu hiu hắt.
    Giữa lòng sông, sóng tung vọt trùm bầu trời,
    Từ trên cửa ải, gió mây sà xuống khiến mặt đất âm u.
    Khóm cúc nở hoa đã hai lần làm tuôn rơi nước mắt ngày trước,
    Con thuyền lẻ loi thắt chặt mãi tấm lòng nhớ về vườn cũ.
    Chỗ nào cũng rộn ràng dao thước để may áo rét,
    Về chiều, từ trên thành Bạch Đế cao, tiếng chày nện vải nghe càng dồn dập.
    Dịch thơ
    Bản dịch 1
    Lác đác rừng phong hạt móc sa,
    Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
    Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
    Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
    Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
    Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
    Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
    Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
    (Nguyễn Công Trứ dịch, Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội 2014, tr.146)
    Bản dịch 2
    Móc trắng rừng phong vẻ úa gầy,
    Vu sơn, Vu giáp khí thu dày.
    Lòng sông sóng tận lưng trời nhảy,
    Đầu ải mây sà mặt đất bay.
    Lệ cũ nở hai mùa cúc đó,
    Lòng quê buộc một chiếc thuyền đây.
    Nơi nơi áo lạnh đòi dao thước,
    Bạch Đế thành hôm rộn tiếng chày.
    (Khương Hữu Dụng dịch, Thơ Đỗ Phủ, NXB Văn học, Hà Nội, 1962, tr.229)
    Sau cảnh nơi nơi rộn ràng may áo rét và tiếng chày nện vải dồn dập, khẩn trương ẩn chứa nỗi niềm gì của nhân vật trữ tình?
    Cuộc sống đầm ấm, bình dị ở quê người
    Nỗi nhớ quê da diết của người lữ khách
    Khát vọng hạnh phúc nơi đất khách quê người
    Mùa thu đang vào những thời khắc lạnh lẽo

    Giải thích
    HS phân tích các từ ngữ hình ảnh “rộn ràng may áo rét”, “xứ xứ”, “tiêng chày nện vải đồn dập” trong hai câu cuối để chỉ ra tâm trạng cô đơn, nhớ quê của nhân vật trữ tình giữa cuộc sống nơi đất khách.
    1/1

  • Đọc văn bản Thu hứng và làm theo yêu cầu.
    THU HỨNG
    Phiên âm
    Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
    Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
    Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
    Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
    Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
    Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
    Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
    Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
    Dịch nghĩa
    Sương móc trắng xóa làm tiêu điều cả rừng cây phong,
    Núi Vu, kẽm Vu hơi thu hiu hắt.
    Giữa lòng sông, sóng tung vọt trùm bầu trời,
    Từ trên cửa ải, gió mây sà xuống khiến mặt đất âm u.
    Khóm cúc nở hoa đã hai lần làm tuôn rơi nước mắt ngày trước,
    Con thuyền lẻ loi thắt chặt mãi tấm lòng nhớ về vườn cũ.
    Chỗ nào cũng rộn ràng dao thước để may áo rét,
    Về chiều, từ trên thành Bạch Đế cao, tiếng chày nện vải nghe càng dồn dập.
    Dịch thơ
    Bản dịch 1
    Lác đác rừng phong hạt móc sa,
    Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
    Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
    Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
    Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
    Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
    Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
    Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
    (Nguyễn Công Trứ dịch, Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội 2014, tr.146)
    Bản dịch 2
    Móc trắng rừng phong vẻ úa gầy,
    Vu sơn, Vu giáp khí thu dày.
    Lòng sông sóng tận lưng trời nhảy,
    Đầu ải mây sà mặt đất bay.
    Lệ cũ nở hai mùa cúc đó,
    Lòng quê buộc một chiếc thuyền đây.
    Nơi nơi áo lạnh đòi dao thước,
    Bạch Đế thành hôm rộn tiếng chày.
    (Khương Hữu Dụng dịch, Thơ Đỗ Phủ, NXB Văn học, Hà Nội, 1962, tr.229)
    Những hình ảnh nào trong bốn câu thơ đầu thể hiện bức tranh thu qua cái nhìn của tác giả?
    Núi Vu, kẽm Vu hiu hắt
    Rừng phong tiêu điều
    Sóng tung vọt giữa lòng sông
    Khóm cúc nở hoa
    Sương móc trắng xóa
    Con thuyền lẻ loi, cô độc
    Gió mây sà xuống trên cửa ải

    Đáp án
    THU HỨNG
    Phiên âm
    Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
    Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
    Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
    Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
    Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
    Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
    Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
    Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
    Dịch nghĩa
    Sương móc trắng xóa làm tiêu điều cả rừng cây phong,
    Núi Vu, kẽm Vu hơi thu hiu hắt.
    Giữa lòng sông, sóng tung vọt trùm bầu trời,
    Từ trên cửa ải, gió mây sà xuống khiến mặt đất âm u.
    Khóm cúc nở hoa đã hai lần làm tuôn rơi nước mắt ngày trước,
    Con thuyền lẻ loi thắt chặt mãi tấm lòng nhớ về vườn cũ.
    Chỗ nào cũng rộn ràng dao thước để may áo rét,
    Về chiều, từ trên thành Bạch Đế cao, tiếng chày nện vải nghe càng dồn dập.
    Dịch thơ
    Bản dịch 1
    Lác đác rừng phong hạt móc sa,
    Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
    Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
    Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
    Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
    Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
    Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
    Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
    (Nguyễn Công Trứ dịch, Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội 2014, tr.146)
    Bản dịch 2
    Móc trắng rừng phong vẻ úa gầy,
    Vu sơn, Vu giáp khí thu dày.
    Lòng sông sóng tận lưng trời nhảy,
    Đầu ải mây sà mặt đất bay.
    Lệ cũ nở hai mùa cúc đó,
    Lòng quê buộc một chiếc thuyền đây.
    Nơi nơi áo lạnh đòi dao thước,
    Bạch Đế thành hôm rộn tiếng chày.
    (Khương Hữu Dụng dịch, Thơ Đỗ Phủ, NXB Văn học, Hà Nội, 1962, tr.229)
    Những hình ảnh nào trong bốn câu thơ đầu thể hiện bức tranh thu qua cái nhìn của tác giả?
    Núi Vu, kẽm Vu hiu hắt
    Rừng phong tiêu điều
    Sóng tung vọt giữa lòng sông
    Khóm cúc nở hoa
    Sương móc trắng xóa
    Con thuyền lẻ loi, cô độc
    Gió mây sà xuống trên cửa ải

    Giải thích
    HS xem lại phần Kiến thức Ngữ Văn, mục 3 kết hợp với đọc hiểu, chỉ ra được các hình ảnh tiêu biểu cho không khí mùa thu trong 4 câu thơ đầu.
    1/1

  • Đọc văn bản Thu hứng và làm theo yêu cầu.
    THU HỨNG
    Phiên âm
    Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
    Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
    Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
    Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
    Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
    Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
    Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
    Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
    Dịch nghĩa
    Sương móc trắng xóa làm tiêu điều cả rừng cây phong,
    Núi Vu, kẽm Vu hơi thu hiu hắt.
    Giữa lòng sông, sóng tung vọt trùm bầu trời,
    Từ trên cửa ải, gió mây sà xuống khiến mặt đất âm u.
    Khóm cúc nở hoa đã hai lần làm tuôn rơi nước mắt ngày trước,
    Con thuyền lẻ loi thắt chặt mãi tấm lòng nhớ về vườn cũ.
    Chỗ nào cũng rộn ràng dao thước để may áo rét,
    Về chiều, từ trên thành Bạch Đế cao, tiếng chày nện vải nghe càng dồn dập.
    Dịch thơ
    Bản dịch 1
    Lác đác rừng phong hạt móc sa,
    Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
    Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
    Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
    Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
    Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
    Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
    Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
    (Nguyễn Công Trứ dịch, Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội 2014, tr.146)
    Bản dịch 2
    Móc trắng rừng phong vẻ úa gầy,
    Vu sơn, Vu giáp khí thu dày.
    Lòng sông sóng tận lưng trời nhảy,
    Đầu ải mây sà mặt đất bay.
    Lệ cũ nở hai mùa cúc đó,
    Lòng quê buộc một chiếc thuyền đây.
    Nơi nơi áo lạnh đòi dao thước,
    Bạch Đế thành hôm rộn tiếng chày.
    (Khương Hữu Dụng dịch, Thơ Đỗ Phủ, NXB Văn học, Hà Nội, 1962, tr.229)
    Qua bài Thu hứng, tác giả đã bộc bạch những nỗi niềm cảm xúc gì?

    Đáp án
    THU HỨNG
    Phiên âm
    Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
    Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
    Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
    Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
    Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
    Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
    Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
    Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
    Dịch nghĩa
    Sương móc trắng xóa làm tiêu điều cả rừng cây phong,
    Núi Vu, kẽm Vu hơi thu hiu hắt.
    Giữa lòng sông, sóng tung vọt trùm bầu trời,
    Từ trên cửa ải, gió mây sà xuống khiến mặt đất âm u.
    Khóm cúc nở hoa đã hai lần làm tuôn rơi nước mắt ngày trước,
    Con thuyền lẻ loi thắt chặt mãi tấm lòng nhớ về vườn cũ.
    Chỗ nào cũng rộn ràng dao thước để may áo rét,
    Về chiều, từ trên thành Bạch Đế cao, tiếng chày nện vải nghe càng dồn dập.
    Dịch thơ
    Bản dịch 1
    Lác đác rừng phong hạt móc sa,
    Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
    Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
    Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
    Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
    Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
    Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
    Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
    (Nguyễn Công Trứ dịch, Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội 2014, tr.146)
    Bản dịch 2
    Móc trắng rừng phong vẻ úa gầy,
    Vu sơn, Vu giáp khí thu dày.
    Lòng sông sóng tận lưng trời nhảy,
    Đầu ải mây sà mặt đất bay.
    Lệ cũ nở hai mùa cúc đó,
    Lòng quê buộc một chiếc thuyền đây.
    Nơi nơi áo lạnh đòi dao thước,
    Bạch Đế thành hôm rộn tiếng chày.
    (Khương Hữu Dụng dịch, Thơ Đỗ Phủ, NXB Văn học, Hà Nội, 1962, tr.229)
    Qua bài Thu hứng, tác giả đã bộc bạch những nỗi niềm cảm xúc gì?

    Giải thích
    Đáp án: Trước hết, tác phẩm bộc bạch nỗi niềm thân phận của Đỗ Phủ. Đó là nỗi cô đơn, niềm nhớ quê da diết của một người lữ thứ khi đứng trước cảnh thu. Bài thơ còn thể hiện những cảm thức xã hội của tác giả. Đó là dự cảm về một hiện thực rộng lớn của cuộc sống con người với chiến tranh, loạn lạc, li tán, bần hàn,… về một thời đại dữ dội với những đảo điên bất thường, về một vũ trụ bất định vô cùng trong sự đối lập với cái nhỏ bé, mỏng manh của con người.
    HS xem lại phần Kiến thức Ngữ văn mục 5.2 về đặc điểm của thơ Đường luật, chú ý tính chất gợi nhiều hơn tả; xem lại cuộc đời Đỗ Phủ với hoàn cảnh đặc biệt của cá nhân và xã hội thời bấy giờ để đưa ra những lí giải phù hợp.
    1/1

  • Đọc văn bản Thu hứng và làm theo yêu cầu.
    THU HỨNG
    Phiên âm
    Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
    Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
    Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
    Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
    Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
    Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
    Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
    Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
    Dịch nghĩa
    Sương móc trắng xóa làm tiêu điều cả rừng cây phong,
    Núi Vu, kẽm Vu hơi thu hiu hắt.
    Giữa lòng sông, sóng tung vọt trùm bầu trời,
    Từ trên cửa ải, gió mây sà xuống khiến mặt đất âm u.
    Khóm cúc nở hoa đã hai lần làm tuôn rơi nước mắt ngày trước,
    Con thuyền lẻ loi thắt chặt mãi tấm lòng nhớ về vườn cũ.
    Chỗ nào cũng rộn ràng dao thước để may áo rét,
    Về chiều, từ trên thành Bạch Đế cao, tiếng chày nện vải nghe càng dồn dập.
    Dịch thơ
    Bản dịch 1
    Lác đác rừng phong hạt móc sa,
    Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
    Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
    Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
    Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
    Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
    Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
    Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
    (Nguyễn Công Trứ dịch, Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội 2014, tr.146)
    Bản dịch 2
    Móc trắng rừng phong vẻ úa gầy,
    Vu sơn, Vu giáp khí thu dày.
    Lòng sông sóng tận lưng trời nhảy,
    Đầu ải mây sà mặt đất bay.
    Lệ cũ nở hai mùa cúc đó,
    Lòng quê buộc một chiếc thuyền đây.
    Nơi nơi áo lạnh đòi dao thước,
    Bạch Đế thành hôm rộn tiếng chày.
    (Khương Hữu Dụng dịch, Thơ Đỗ Phủ, NXB Văn học, Hà Nội, 1962, tr.229)
    So với những bài thơ khác viết về mùa thu trong văn học trung đại, bức tranh thu của Đỗ Phủ có điều gì khác biệt (VD: Thu điếu của Nguyễn Khuyến hay Bài ca nhà tranh bị gió thu phá của Đỗ Phủ)?

    Đáp án
    THU HỨNG
    Phiên âm
    Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
    Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
    Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
    Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
    Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
    Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
    Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
    Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
    Dịch nghĩa
    Sương móc trắng xóa làm tiêu điều cả rừng cây phong,
    Núi Vu, kẽm Vu hơi thu hiu hắt.
    Giữa lòng sông, sóng tung vọt trùm bầu trời,
    Từ trên cửa ải, gió mây sà xuống khiến mặt đất âm u.
    Khóm cúc nở hoa đã hai lần làm tuôn rơi nước mắt ngày trước,
    Con thuyền lẻ loi thắt chặt mãi tấm lòng nhớ về vườn cũ.
    Chỗ nào cũng rộn ràng dao thước để may áo rét,
    Về chiều, từ trên thành Bạch Đế cao, tiếng chày nện vải nghe càng dồn dập.
    Dịch thơ
    Bản dịch 1
    Lác đác rừng phong hạt móc sa,
    Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
    Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
    Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
    Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
    Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
    Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
    Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
    (Nguyễn Công Trứ dịch, Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội 2014, tr.146)
    Bản dịch 2
    Móc trắng rừng phong vẻ úa gầy,
    Vu sơn, Vu giáp khí thu dày.
    Lòng sông sóng tận lưng trời nhảy,
    Đầu ải mây sà mặt đất bay.
    Lệ cũ nở hai mùa cúc đó,
    Lòng quê buộc một chiếc thuyền đây.
    Nơi nơi áo lạnh đòi dao thước,
    Bạch Đế thành hôm rộn tiếng chày.
    (Khương Hữu Dụng dịch, Thơ Đỗ Phủ, NXB Văn học, Hà Nội, 1962, tr.229)
    So với những bài thơ khác viết về mùa thu trong văn học trung đại, bức tranh thu của Đỗ Phủ có điều gì khác biệt (VD: Thu điếu của Nguyễn Khuyến hay Bài ca nhà tranh bị gió thu phá của Đỗ Phủ)?

    Giải thích
    Đáp án: Bài thơ là một bức tranh mùa thu “khác lạ” trong thơ xưa: Không phải là thi tứ “đăng cao vọng viễn” thể hiện hùng tâm tráng chí, không phải là tâm hồn rộng lớn khoáng đạt trước đất trời; không phải là vẻ thanh cao tiêu sái, u nhàn. Mà trái lại, là một cảnh tượng mùa thu với sương trắng tiêu điều, hơi thu hiu hắt gợi cảm giác thê lương; không gian chao đảo, thời gian ngưng lắng. Và một tâm hồn thu cô độc, lẻ loi, da diết nhớ quê nhà. Đây cũng là cảm xúc thường thấy trong thơ viết về mùa thu của Đỗ Phủ.
    HS đọc kĩ văn bản, kết hợp với so sánh với một số bài thơ viết về mùa thu trong văn học trung đại để chỉ ra nét riêng trong cách tả cảnh thu, thể hiện tình thu của tác giả.
    1/1

hoclieuthongminh.com © 2022

  • Sitemap
  • Home
  • Home
Press space bar to start a drag. When dragging you can use the arrow keys to move the item around and escape to cancel. Some screen readers may require you to be in focus mode or to use your pass through key
Press space bar to start a drag. When dragging you can use the arrow keys to move the item around and escape to cancel. Some screen readers may require you to be in focus mode or to use your pass through key