| – Không gian: mùa thu phố phường với các ngõ phố dài sâu hun hút, những bậc thềm nắng lá rơi.
– Hình ảnh: Những phố dài xao xác hơi may:
+ Hà Nội vốn gắn liền với phố, Hà Nội phố từng đi vào thơ ca nhạc hoạ, Thạch Lam có Hà Nội băm sáu phố phường, Nguyễn Phan Hách có Em ơi Hà Nội phố. Lựa chọn hình ảnh “những phố dài” là chọn được hình ảnh điển hình, nổi bật của Hà Nội. Điều này phù hợp với quy luật của hoài niệm, bởi trong nỗi nhớ, người ta chỉ nhớ những gì thật điển hình, đáng nhớ.
+ Từ “xao xác” bắt đầu bằng thanh bằng, kết thúc bằng thanh trắc ở âm vực cao nhất trong hệ thống thanh điệu tiếng Việt, thể hiện âm thanh cao, khô, trong, gợi được âm thanh của lá khô lăn mình trong gió trên đường phố, đồng thời cũng gợi được sự gầy guộc xác xơ của những hàng cây khi mùa thu lá rụng. Lưu Trọng Lư từng miêu tả về tiếng lá thu: “Em không rừng thu/ Lá thu kêu xào xạc”.
Khác với “xao xác”, “xào xạc” là âm thanh trầm đục, gợi tiếng lá thu nơi núi rừng. Để nghe được tiếng lá xao xác, không gian phải thật yên tĩnh. Như thế, những con phố Hà Nội trong không chỉ dài, hun hút, mà còn vắng vẻ, đượm buồn.
“Xao xác” không chỉ là từ gợi ra âm thanh của gió, âm thanh do gió, mà còn là từ gợi tả những nỗi niềm không an định ở lòng người. Trong cảnh thu đã thầm kín ẩn giấu tình thu.
+ “Hơi may”: cũng là một lựa chọn từ ngữ tinh tế. Đó là hơi của gió heo may, khẽ, nhẹ, nó được nhận ra bằng cảm giác nhiều hơn là xúc giác.
| – Không gian: được mở rộng từ mùa thu trong phố phường đến mùa thu nơi rừng núi.
– Hình ảnh:
+ “Núi đồi”, “gió thổi rừng tre phấp phới”, “trời thu thay áo mới”, “trong biếc”, “những cánh đồng thơm mát”, “những ngả đường bát ngát”, “những dòng sông đỏ nặng phù sa”. Các tính từ “thơm mát”, “bát ngát”, “đỏ nặng” gợi vẻ đẹp đất nước khoáng đạt, rộng lớn, giàu có, trù phú. Nghệ thuật liệt kê, điệp từ “những”, điệp cấu trúc đặt những hình ảnh kế tiếp nhau hàm ý đất nước còn nhiều vẻ đẹp nữa.
+ Hình ảnh bầu trời được đặc tả nhiều lần: “trời xanh”, “thay áo mới”, “trong biếc” nhấn mạnh bầu trời tự do của mùa thu mới, mùa thu Cách mạng.
|
| + “Thềm nắng lá rơi đầy”: hình ảnh gợi cảm, khiến người đọc cảm nhận về không gian thu Hà Nội trong các ngõ phố đầy nắng, đầy lá, đầy thơ mộng.
| – Các nguyên âm mở “a”, “át” cuối dòng thơ gợi không gian mở, khoáng hoạt, ngân vang.
|
Con người
| – Người ra đi: có nhiều cách hiểu. Có thể hiểu là những chiến sĩ của Trung đoàn Thủ đô ra đi quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, hoặc người Hà Nội tạm biệt thành phố để ra đi những năm đầu kháng chiến. Nhưng theo nhà thơ Nguyễn Đình Thi, người ra đi ở đây chỉ con người thời kì trước Cách mạng, ra đi để tìm lẽ sống mới, lí tưởng mới, không cam chịu kiếp sống nhỏ nhoi, tù túng.
– Tâm trạng: Buồn, luyến lưu, bịn rịn.
Câu thơ “Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” gợi nhịp rơi chậm, nhẹ của lá thu, đồng thời thể hiện tinh tế nhịp bước chân ngập ngừng, lưu luyến của người ra đi. Có nhiều cách ngắt nhịp. Có thể ngắt là: Sau lưng thềm/ nắng/ lá/ rơi đầy – cả nắng, lá cùng rơi xuống bậc thềm nơi ngõ phố, cách ngắt nhịp này
mang đến vẻ đẹp lung linh siêu thực, cả nắng, lá đều rơi đầy trên thềm nhỏ, nhưng cũng có thể ngắt giản dị hơn, theo Nguyễn Đình Thi nói, thiên nhiên vốn giản dị, ông nghiêng về sự giản dị này: Sau lưng thềm nắng/ lá rơi đầy – gợi lá khô rơi trên thềm nắng.
| – Tâm trạng: chuyển từ buồn sang vui.
+ “Vui nghe”: niềm vui tràn đầy trong lòng, nhuốm lên cảnh vật, khiến cảnh vật cũng trở nên vui tươi.
+ “Phấp phới”: vừa tạo hình rừng tre lay động như những làn sóng trong gió, vừa gợi tâm trạng vui tươi của lòng người, tả ngoại cảnh đồng thời gửi gắm tâm cảnh”.
+ “Trong biếc nói cười thiết tha”: từ “trong biếc” nối liền hai câu “trời thu thay áo mới” và “trong biếc nói cười thiết tha” khiến lời thơ trở nên hàm súc, đa nghĩa. Nhà thơ vừa diễn tả được sự trong trẻo, biếc xanh của trời thu, vừa diễn tả được sự trong trẻo, trẻ trung của tiếng nói cười. Nhiều sắc thái tình cảm dồn nén trong câu thơ sáu chữ: âm thanh “nói cười” vui vẻ, màu sắc “trong biếc”, tình cảm “thiết tha”.
|
| – Tư thế: dứt khoát: “đầu không ngoảnh lại”, thể hiện quyết tâm ra đi vì đại nghĩa, dù phải bỏ lại: “Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”. Qua cách miêu tả cảnh vật như vậy, Nguyễn Đình Thi thể hiện sự gắn bó tha thiết với quê hương, trái tim nhạy cảm với những vẻ đẹp nên thơ của “người ra đi” với mùa thu Hà Nội, “đầu không ngoảnh lại” nhưng vẫn đầy luyến lưu, con người không chỉ hiện lên với vẻ đẹp sắt đá mà còn có sự kết hợp hài hoà giữa vẻ đẹp của lí tưởng và tâm hồn. Đây cũng chính là mẫu số chung trong cách khắc hoạ con người của thơ ca kháng chiến.
| – Tư thế:
+ Con người đứng giữa đất trời: “Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi”.
+ Con người hiện lên trong tư thế của người làm chủ. Đại từ chỉ định “đây”, điệp ngữ, điệp cấu trúc “của chúng ta” khẳng định mạnh mẽ ý thức chủ quyền. Nếu trước kia, con người phải ra đi vì đại nghĩa để tìm lí tưởng, thì ngày nay, họ được ở trên chính đất đai, rừng núi quê hương mình, dõng dạc khẳng định quyền làm chủ non sông.
|
Nghệ thuật thể hiện
| Câu thơ bảy chữ, tiết tấu chậm, hình ảnh thơ gợi cảm, gợi vẻ đẹp cổ điển, nỗi buồn sâu lắng.
| Câu thơ tự do, tiết tấu nhanh, nhịp điệu hối hả vui tươi, hình ảnh tươi sáng, không gian trải rộng.
|