1. Khối 10
  2. Bài tập phát triển năng lực Ngữ văn 10 - Tập hai
  3. Bài 7 Nguyễn Trãi. Ôn các biện pháp tu từ. Viết bài luận thuyết phục người khác từ bỏ một thói quen hay một quan niệm. Thảo luận về một vấn đề có những ý kiến khác nhau
  4. I. Thực hành đọc
  5. Đọc hiểu văn bản "Bình ngô đại cáo"

  • Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu:
    BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO
    NGUYỄN TRÃI
    1. Từng nghe:
    Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
    Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
    Như nước Đại Việt ta từ trước,
    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
    Núi sông bờ cõi đã chia,
    Phong tục Bắc Nam cũng khác.
    Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
    Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
    Song hào kiệt đời nào cũng có.
    Vậy nên:
    Lưu Cung tham công nên thất bại,
    Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
    Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
    Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
    Việc xưa xem xét,
    Chứng cớ còn ghi.
    2. Vừa rồi:
    Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
    Để trong nước lòng dân oán hận.
    Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
    Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
    Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
    Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
    Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
    Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
    Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
    Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
    Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
    Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
    Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
    Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
    Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
    Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
    Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán;
    Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
    Nặng nề những nỗi phu phen,
    Tan tác cả nghề canh cửi.
    Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
    Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
    Lẽ nào trời đất dung tha,
    Ai bảo thần nhân chịu được?
    3. Ta đây:
    Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
    Chốn hoang dã nương mình.
    Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
    Căm giặc nước thề không cùng sống.
    Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;
    Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
    Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;
    Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ.
    Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
    Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.
    Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
    Chính lúc quân thù đương mạnh.
    Lại ngặt vì:
    Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
    Nhân tài như lá mùa thu.
    Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
    Nơi duy ác hiếm người bàn bạc.
    Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông;
    Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành phía tả.
    Thế mà:
    Trông người người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi,
    Tự ta ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
    Phần thì giận hung đồ ngang dọc,
    Phần thì lo vận nước khó khăn.
    Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
    Khi Khôi Huyện quân không một đội.
    Trời thử lòng trao cho mệnh lớn,
    Ta gắng chí khắc phục gian nan.
    Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới ;
    Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
    Thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh;
    Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
    Trọn hay:
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo.
    Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
    Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay?.
    Sĩ khí đã hăng,
    Quân thanh càng mạnh.
    Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
    Lý An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân.
    Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại;
    Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
    Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm;
    Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
    Phúc tâm quân giặc, Trần Hiệp đã phải bêu đầu;
    Mọt gian kẻ thù, Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
    Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy;
    Mã Anh cứu trận đánh, mà quân ta hăng lại càng hăng.
    Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt;
    Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt, tâm công.
    Tưởng chúng biết lẽ ăn năn, nên đã thay lòng đổi dạ;
    Ngờ đâu vẫn đương mưu tính, lại còn chuốc tội gây oan.
    Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác;
    Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
    Bởi thế:
    Thằng nhãi con Tuyên Đức, động binh không ngừng;
    Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy.
    Đinh Mùi tháng Chín Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn tiến lại;
    Năm ấy tháng Mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
    Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong;
    Ta sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực.
    Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
    Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu,
    Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,
    Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
    Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá,
    Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau.
    Lại thêm quân bốn mặt vây thành,
    Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc.
    Sĩ tốt kén người hùng hổ,
    Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh.
    Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
    Voi uống nước, nước sông phải cạn.
    Đánh một trận, sạch không kình ngạc,
    Đánh hai trận, tan tác chim muông.
    Nổi gió to trút sạch lá khô,
    Thông tổ kiến phá toang để vỡ.
    Đô đốc Thối Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
    Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
    Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường;
    Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước.
    Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,
    Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.
    Bị ta chẹn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật;
    Thua quân ta ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
    Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc;
    Thành Đan Xá thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
    Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp ;
    Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng.
    Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng;
    Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh.
    Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc;
    Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
    Họ đã tham sống sợ chết, mà hoà hiếu thực lòng;
    Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
    Chẳng những mưu kế kì diệu,
    Cũng là chưa thấy xưa nay.
    4. Xã tắc từ đây vững bền,
    Giang sơn từ đây đổi mới.
    Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
    Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
    Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
    Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.
    Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy.
    Than ôi !
    Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm;
    Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.
    Xa gần bá cáo.
    Ai nấy đều hay.
    (Theo bản dịch của Bùi Kỉ, in trong Ngữ văn 10, tập hai NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2021, tr. 17– 22)
    Theo em, vì sao Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi được đánh giá là áng “thiên cổ hùng văn”?

    Đáp án

    Giải thích
    Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi xứng đáng là một “thiên cổ hùng văn”, là áng văn hùng tráng lưu truyền cả nghìn đời. Sở dĩ người ta đánh giá cao về Bình Ngô đại cáo như thế vì tác phẩm là bản hùng ca xuất sắc cả về nội dung và nghệ thuật:
    –
    Bình Ngô đại cáo là bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến chống quân Minh, là một bản tổng kết chiến tranh 10 năm. Tác giả đã tái hiện lại toàn bộ diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ những ngày đầu cờ nghĩa mới phất lên, trải qua những chặng đường gian khổ, cuối cùng đã giành thắng lợi rực rỡ. Áng văn đã thể hiện một tinh thần yêu nước mãnh liệt, tinh thần chiến đấu hết sức mạnh mẽ, quyết liệt, khí thế hào hùng của quân và dân ta. Dưới sự lãnh đạo tài tình của vị chủ tướng Lê Lợi, nghĩa quân đã làm nên những trận đánh long trời lở đất khiến cho quân thù phải khiếp sợ, đẩy chúng đến sự thất bại toàn diện và nhục nhã. Tác phẩm đã nêu cao tư tưởng nhân nghĩa và khẳng định được quyền độc lập, tự chủ, sự trường tồn của dân tộc Việt Nam.
    – Sự bất hủ của bài cáo còn là do nghệ thuật về văn chính luận đặc sắc của tác giả.
    Bình Ngô đại cáo được sáng tác theo thể cáo, một thể văn có nguồn gốc từ Trung Hoa, viết bằng chữ Hán, thuộc thể văn hùng biện chính luận, có nội dung thông báo một chính sách, một sự kiện trọng đại liên quan đến quốc gia dân tộc, công báo trước toàn dân. Bài cáo có cấu trúc tác phẩm hoàn chỉnh, bố cục, hệ thống ý cân đối, chặt chẽ; có sự liền mạch, nhất quán trong hồn văn, giọng văn. Tác giả đã kết hợp đa dạng nhiều bút pháp, biến hoá không ngừng: bút pháp chính luận với miêu tả, tái hiện lịch sử, bút pháp trữ tình với bút pháp anh hùng ca. Ngôn ngữ phong phú, đặc sắc. Câu văn biền ngẫu linh hoạt, tạo ra nhịp điệu phù hợp với cảm xúc từng đoạn. Âm điệu mạnh mẽ thể hiện cảm xúc hào sảng dâng tràn của tác giả trước sức mạnh như vũ bão và những thắng lợi giòn giã của quân ta.
    1/1

  • Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu:
    BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO
    NGUYỄN TRÃI
    1. Từng nghe:
    Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
    Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
    Như nước Đại Việt ta từ trước,
    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
    Núi sông bờ cõi đã chia,
    Phong tục Bắc Nam cũng khác.
    Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
    Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
    Song hào kiệt đời nào cũng có.
    Vậy nên:
    Lưu Cung tham công nên thất bại,
    Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
    Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
    Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
    Việc xưa xem xét,
    Chứng cớ còn ghi.
    2. Vừa rồi:
    Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
    Để trong nước lòng dân oán hận.
    Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
    Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
    Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
    Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
    Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
    Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
    Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
    Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
    Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
    Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
    Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
    Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
    Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
    Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
    Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán;
    Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
    Nặng nề những nỗi phu phen,
    Tan tác cả nghề canh cửi.
    Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
    Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
    Lẽ nào trời đất dung tha,
    Ai bảo thần nhân chịu được?
    3. Ta đây:
    Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
    Chốn hoang dã nương mình.
    Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
    Căm giặc nước thề không cùng sống.
    Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;
    Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
    Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;
    Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ.
    Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
    Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.
    Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
    Chính lúc quân thù đương mạnh.
    Lại ngặt vì:
    Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
    Nhân tài như lá mùa thu.
    Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
    Nơi duy ác hiếm người bàn bạc.
    Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông;
    Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành phía tả.
    Thế mà:
    Trông người người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi,
    Tự ta ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
    Phần thì giận hung đồ ngang dọc,
    Phần thì lo vận nước khó khăn.
    Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
    Khi Khôi Huyện quân không một đội.
    Trời thử lòng trao cho mệnh lớn,
    Ta gắng chí khắc phục gian nan.
    Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới ;
    Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
    Thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh;
    Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
    Trọn hay:
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo.
    Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
    Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay?.
    Sĩ khí đã hăng,
    Quân thanh càng mạnh.
    Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
    Lý An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân.
    Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại;
    Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
    Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm;
    Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
    Phúc tâm quân giặc, Trần Hiệp đã phải bêu đầu;
    Mọt gian kẻ thù, Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
    Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy;
    Mã Anh cứu trận đánh, mà quân ta hăng lại càng hăng.
    Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt;
    Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt, tâm công.
    Tưởng chúng biết lẽ ăn năn, nên đã thay lòng đổi dạ;
    Ngờ đâu vẫn đương mưu tính, lại còn chuốc tội gây oan.
    Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác;
    Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
    Bởi thế:
    Thằng nhãi con Tuyên Đức, động binh không ngừng;
    Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy.
    Đinh Mùi tháng Chín Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn tiến lại;
    Năm ấy tháng Mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
    Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong;
    Ta sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực.
    Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
    Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu,
    Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,
    Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
    Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá,
    Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau.
    Lại thêm quân bốn mặt vây thành,
    Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc.
    Sĩ tốt kén người hùng hổ,
    Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh.
    Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
    Voi uống nước, nước sông phải cạn.
    Đánh một trận, sạch không kình ngạc,
    Đánh hai trận, tan tác chim muông.
    Nổi gió to trút sạch lá khô,
    Thông tổ kiến phá toang để vỡ.
    Đô đốc Thối Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
    Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
    Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường;
    Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước.
    Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,
    Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.
    Bị ta chẹn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật;
    Thua quân ta ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
    Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc;
    Thành Đan Xá thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
    Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp ;
    Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng.
    Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng;
    Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh.
    Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc;
    Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
    Họ đã tham sống sợ chết, mà hoà hiếu thực lòng;
    Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
    Chẳng những mưu kế kì diệu,
    Cũng là chưa thấy xưa nay.
    4. Xã tắc từ đây vững bền,
    Giang sơn từ đây đổi mới.
    Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
    Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
    Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
    Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.
    Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy.
    Than ôi !
    Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm;
    Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.
    Xa gần bá cáo.
    Ai nấy đều hay.
    (Theo bản dịch của Bùi Kỉ, in trong Ngữ văn 10, tập hai NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2021, tr. 17– 22)
    Tác giả đã sử dụng những chi tiết nào để khắc hoạ nhân vật người anh hùng dân tộc Lê Lợi? Qua những chi tiết đó, em cảm nhận được vẻ đẹp gì của nhân vật?

    Đáp án

    Giải thích
    Hình ảnh người anh hùng dân tộc Lê Lợi trong tác phẩm:
    – Tác giả đã lựa chọn những chi tiết tiêu biểu để khắc hoạ nhân vật người anh hùng dân tộc Lê Lợi: “chốn hoang dã nương mình”, “ngẫm thù lớn há đội trời chung”, “căm giặc nước thề không cùng sống”, “tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông”,“đau lòng nhức óc”, “quên ăn vì giận”, “trằn trọc… đồ hồi”...
    – Qua những chi tiết đó, có thể cảm nhận được Lê Lợi là người có những phẩm chất rất đẹp đẽ, xứng đáng là linh hồn, lãnh tụ nghĩa quân. Đó là người anh hùng có lòng căm thù giặc sâu sắc, có lí tưởng, hoài bão cao cả và quyết tâm thực hiện lí tưởng đó, là người một lòng vì nước vì dân, biết đoàn kết toàn dân để chiến thắng kẻ thù.
    1/1

  • Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu:
    BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO
    NGUYỄN TRÃI
    1. Từng nghe:
    Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
    Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
    Như nước Đại Việt ta từ trước,
    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
    Núi sông bờ cõi đã chia,
    Phong tục Bắc Nam cũng khác.
    Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
    Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
    Song hào kiệt đời nào cũng có.
    Vậy nên:
    Lưu Cung tham công nên thất bại,
    Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
    Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
    Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
    Việc xưa xem xét,
    Chứng cớ còn ghi.
    2. Vừa rồi:
    Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
    Để trong nước lòng dân oán hận.
    Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
    Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
    Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
    Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
    Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
    Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
    Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
    Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
    Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
    Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
    Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
    Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
    Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
    Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
    Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán;
    Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
    Nặng nề những nỗi phu phen,
    Tan tác cả nghề canh cửi.
    Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
    Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
    Lẽ nào trời đất dung tha,
    Ai bảo thần nhân chịu được?
    3. Ta đây:
    Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
    Chốn hoang dã nương mình.
    Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
    Căm giặc nước thề không cùng sống.
    Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;
    Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
    Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;
    Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ.
    Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
    Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.
    Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
    Chính lúc quân thù đương mạnh.
    Lại ngặt vì:
    Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
    Nhân tài như lá mùa thu.
    Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
    Nơi duy ác hiếm người bàn bạc.
    Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông;
    Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành phía tả.
    Thế mà:
    Trông người người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi,
    Tự ta ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
    Phần thì giận hung đồ ngang dọc,
    Phần thì lo vận nước khó khăn.
    Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
    Khi Khôi Huyện quân không một đội.
    Trời thử lòng trao cho mệnh lớn,
    Ta gắng chí khắc phục gian nan.
    Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới ;
    Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
    Thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh;
    Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
    Trọn hay:
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo.
    Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
    Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay?.
    Sĩ khí đã hăng,
    Quân thanh càng mạnh.
    Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
    Lý An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân.
    Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại;
    Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
    Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm;
    Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
    Phúc tâm quân giặc, Trần Hiệp đã phải bêu đầu;
    Mọt gian kẻ thù, Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
    Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy;
    Mã Anh cứu trận đánh, mà quân ta hăng lại càng hăng.
    Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt;
    Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt, tâm công.
    Tưởng chúng biết lẽ ăn năn, nên đã thay lòng đổi dạ;
    Ngờ đâu vẫn đương mưu tính, lại còn chuốc tội gây oan.
    Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác;
    Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
    Bởi thế:
    Thằng nhãi con Tuyên Đức, động binh không ngừng;
    Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy.
    Đinh Mùi tháng Chín Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn tiến lại;
    Năm ấy tháng Mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
    Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong;
    Ta sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực.
    Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
    Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu,
    Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,
    Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
    Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá,
    Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau.
    Lại thêm quân bốn mặt vây thành,
    Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc.
    Sĩ tốt kén người hùng hổ,
    Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh.
    Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
    Voi uống nước, nước sông phải cạn.
    Đánh một trận, sạch không kình ngạc,
    Đánh hai trận, tan tác chim muông.
    Nổi gió to trút sạch lá khô,
    Thông tổ kiến phá toang để vỡ.
    Đô đốc Thối Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
    Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
    Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường;
    Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước.
    Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,
    Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.
    Bị ta chẹn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật;
    Thua quân ta ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
    Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc;
    Thành Đan Xá thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
    Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp ;
    Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng.
    Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng;
    Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh.
    Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc;
    Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
    Họ đã tham sống sợ chết, mà hoà hiếu thực lòng;
    Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
    Chẳng những mưu kế kì diệu,
    Cũng là chưa thấy xưa nay.
    4. Xã tắc từ đây vững bền,
    Giang sơn từ đây đổi mới.
    Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
    Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
    Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
    Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.
    Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy.
    Than ôi !
    Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm;
    Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.
    Xa gần bá cáo.
    Ai nấy đều hay.
    (Theo bản dịch của Bùi Kỉ, in trong Ngữ văn 10, tập hai NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2021, tr. 17– 22)
    Nêu cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của tác giả được thể hiện trong văn bản.

    Đáp án

    Giải thích
    Tư tưởng nhân nghĩa của tác giả:
    – Quan niệm về nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trong
    Bình Ngô đại cáo mang tính nhân văn tiến bộ. Cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa là “yên dân” và “trừ bạo”. “Yên dân” chính là tiêu chí, là thước đo để đánh giá mọi việc trên đời có nhân nghĩa hay không.
    – Nhân nghĩa gắn liền với chủ nghĩa yêu nước chống ngoại xâm. Nhân nghĩa là hướng đến dân, phải tiêu diệt giặc tham tàn bạo ngược, kẻ thù của dân để đem lại cuộc sống thái bình cho nhân dân.
    – Tư tưởng nhân nghĩa đã trở thành điểm tựa, là yếu tố quan mang tính quyết định đưa đến mọi thắng lợi của nghĩa quân Lam Sơn, của nhân dân Đại Việt trong cuộc đấu tranh chống giặc Minh
    1/1

  • Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu:
    BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO
    NGUYỄN TRÃI
    1. Từng nghe:
    Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
    Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
    Như nước Đại Việt ta từ trước,
    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
    Núi sông bờ cõi đã chia,
    Phong tục Bắc Nam cũng khác.
    Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
    Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
    Song hào kiệt đời nào cũng có.
    Vậy nên:
    Lưu Cung tham công nên thất bại,
    Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
    Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
    Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
    Việc xưa xem xét,
    Chứng cớ còn ghi.
    2. Vừa rồi:
    Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
    Để trong nước lòng dân oán hận.
    Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
    Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
    Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
    Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
    Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
    Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
    Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
    Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
    Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
    Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
    Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
    Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
    Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
    Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
    Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán;
    Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
    Nặng nề những nỗi phu phen,
    Tan tác cả nghề canh cửi.
    Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
    Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
    Lẽ nào trời đất dung tha,
    Ai bảo thần nhân chịu được?
    3. Ta đây:
    Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
    Chốn hoang dã nương mình.
    Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
    Căm giặc nước thề không cùng sống.
    Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;
    Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
    Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;
    Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ.
    Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
    Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.
    Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
    Chính lúc quân thù đương mạnh.
    Lại ngặt vì:
    Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
    Nhân tài như lá mùa thu.
    Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
    Nơi duy ác hiếm người bàn bạc.
    Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông;
    Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành phía tả.
    Thế mà:
    Trông người người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi,
    Tự ta ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
    Phần thì giận hung đồ ngang dọc,
    Phần thì lo vận nước khó khăn.
    Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
    Khi Khôi Huyện quân không một đội.
    Trời thử lòng trao cho mệnh lớn,
    Ta gắng chí khắc phục gian nan.
    Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới ;
    Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
    Thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh;
    Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
    Trọn hay:
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo.
    Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
    Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay?.
    Sĩ khí đã hăng,
    Quân thanh càng mạnh.
    Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
    Lý An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân.
    Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại;
    Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
    Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm;
    Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
    Phúc tâm quân giặc, Trần Hiệp đã phải bêu đầu;
    Mọt gian kẻ thù, Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
    Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy;
    Mã Anh cứu trận đánh, mà quân ta hăng lại càng hăng.
    Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt;
    Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt, tâm công.
    Tưởng chúng biết lẽ ăn năn, nên đã thay lòng đổi dạ;
    Ngờ đâu vẫn đương mưu tính, lại còn chuốc tội gây oan.
    Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác;
    Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
    Bởi thế:
    Thằng nhãi con Tuyên Đức, động binh không ngừng;
    Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy.
    Đinh Mùi tháng Chín Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn tiến lại;
    Năm ấy tháng Mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
    Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong;
    Ta sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực.
    Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
    Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu,
    Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,
    Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
    Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá,
    Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau.
    Lại thêm quân bốn mặt vây thành,
    Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc.
    Sĩ tốt kén người hùng hổ,
    Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh.
    Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
    Voi uống nước, nước sông phải cạn.
    Đánh một trận, sạch không kình ngạc,
    Đánh hai trận, tan tác chim muông.
    Nổi gió to trút sạch lá khô,
    Thông tổ kiến phá toang để vỡ.
    Đô đốc Thối Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
    Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
    Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường;
    Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước.
    Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,
    Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.
    Bị ta chẹn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật;
    Thua quân ta ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
    Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc;
    Thành Đan Xá thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
    Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp ;
    Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng.
    Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng;
    Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh.
    Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc;
    Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
    Họ đã tham sống sợ chết, mà hoà hiếu thực lòng;
    Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
    Chẳng những mưu kế kì diệu,
    Cũng là chưa thấy xưa nay.
    4. Xã tắc từ đây vững bền,
    Giang sơn từ đây đổi mới.
    Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
    Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
    Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
    Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.
    Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy.
    Than ôi !
    Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm;
    Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.
    Xa gần bá cáo.
    Ai nấy đều hay.
    (Theo bản dịch của Bùi Kỉ, in trong Ngữ văn 10, tập hai NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2021, tr. 17– 22)
    Em hãy phân tích những đặc sắc về nghệ thuật trong đoạn văn tố cáo tội ác của kẻ thù:
                            ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~                        Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
                            ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~                        Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
                            ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~                        Lẽ nào trời đất dung tha,
                            ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~                        Ai bảo thần nhân chịu được ?

    Đáp án

    Giải thích
    Nguyễn Trãi đã kết thúc bản cáo trạng tội ác kẻ thù bằng câu văn cảm thán cất lên như một lời nguyền, chất chứa căm hờn oán giận. Dùng nghệ thuật thậm xưng, tác giả lấy cái vô hạn (trúc Lam Sơn) để nói cái vô hạn (tội ác của giặc), dùng cái vô cùng (nước Đông Hải) để nói cái vô cùng (sự nhơ bẩn của kẻ thù).
    Ngoài ra, tác giả còn sử dụng câu hỏi tu từ: “Lẽ nào trời đất dung tha/ Ai bảo thần nhân chịu được?” để nhấn mạnh, tô đậm niềm căm phẫn tột cùng của nhân dân ta trước tội ác của quân giặc – tội ác khiến trời không dung, đất không tha.
    1/1

  • Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu:
    BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO
    NGUYỄN TRÃI
    1. Từng nghe:
    Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
    Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
    Như nước Đại Việt ta từ trước,
    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
    Núi sông bờ cõi đã chia,
    Phong tục Bắc Nam cũng khác.
    Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
    Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
    Song hào kiệt đời nào cũng có.
    Vậy nên:
    Lưu Cung tham công nên thất bại,
    Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
    Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
    Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
    Việc xưa xem xét,
    Chứng cớ còn ghi.
    2. Vừa rồi:
    Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
    Để trong nước lòng dân oán hận.
    Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
    Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
    Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
    Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
    Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
    Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
    Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
    Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
    Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
    Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
    Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
    Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
    Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
    Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
    Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán;
    Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
    Nặng nề những nỗi phu phen,
    Tan tác cả nghề canh cửi.
    Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
    Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
    Lẽ nào trời đất dung tha,
    Ai bảo thần nhân chịu được?
    3. Ta đây:
    Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
    Chốn hoang dã nương mình.
    Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
    Căm giặc nước thề không cùng sống.
    Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;
    Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
    Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;
    Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ.
    Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
    Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.
    Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
    Chính lúc quân thù đương mạnh.
    Lại ngặt vì:
    Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
    Nhân tài như lá mùa thu.
    Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
    Nơi duy ác hiếm người bàn bạc.
    Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông;
    Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành phía tả.
    Thế mà:
    Trông người người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi,
    Tự ta ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
    Phần thì giận hung đồ ngang dọc,
    Phần thì lo vận nước khó khăn.
    Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
    Khi Khôi Huyện quân không một đội.
    Trời thử lòng trao cho mệnh lớn,
    Ta gắng chí khắc phục gian nan.
    Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới ;
    Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
    Thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh;
    Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
    Trọn hay:
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo.
    Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
    Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay?.
    Sĩ khí đã hăng,
    Quân thanh càng mạnh.
    Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
    Lý An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân.
    Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại;
    Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
    Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm;
    Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
    Phúc tâm quân giặc, Trần Hiệp đã phải bêu đầu;
    Mọt gian kẻ thù, Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
    Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy;
    Mã Anh cứu trận đánh, mà quân ta hăng lại càng hăng.
    Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt;
    Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt, tâm công.
    Tưởng chúng biết lẽ ăn năn, nên đã thay lòng đổi dạ;
    Ngờ đâu vẫn đương mưu tính, lại còn chuốc tội gây oan.
    Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác;
    Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
    Bởi thế:
    Thằng nhãi con Tuyên Đức, động binh không ngừng;
    Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy.
    Đinh Mùi tháng Chín Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn tiến lại;
    Năm ấy tháng Mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
    Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong;
    Ta sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực.
    Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
    Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu,
    Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,
    Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
    Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá,
    Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau.
    Lại thêm quân bốn mặt vây thành,
    Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc.
    Sĩ tốt kén người hùng hổ,
    Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh.
    Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
    Voi uống nước, nước sông phải cạn.
    Đánh một trận, sạch không kình ngạc,
    Đánh hai trận, tan tác chim muông.
    Nổi gió to trút sạch lá khô,
    Thông tổ kiến phá toang để vỡ.
    Đô đốc Thối Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
    Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
    Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường;
    Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước.
    Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,
    Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.
    Bị ta chẹn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật;
    Thua quân ta ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
    Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc;
    Thành Đan Xá thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
    Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp ;
    Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng.
    Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng;
    Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh.
    Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc;
    Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
    Họ đã tham sống sợ chết, mà hoà hiếu thực lòng;
    Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
    Chẳng những mưu kế kì diệu,
    Cũng là chưa thấy xưa nay.
    4. Xã tắc từ đây vững bền,
    Giang sơn từ đây đổi mới.
    Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
    Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
    Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
    Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.
    Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy.
    Than ôi !
    Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm;
    Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.
    Xa gần bá cáo.
    Ai nấy đều hay.
    (Theo bản dịch của Bùi Kỉ, in trong Ngữ văn 10, tập hai NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2021, tr. 17– 22)
    Trong đoạn 1 của văn bản, Nguyễn Trãi đã khẳng định độc lập, chủ quyền của dân tộc ta dựa trên những cơ sở nào? So với văn bản Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt) mà em đã được học, quan niệm về dân tộc của Nguyễn Trãi có bước phát triển như thế nào?

    Đáp án

    Giải thích
    Bình Ngô đại cáo thể hiện một nhận thức toàn diện, sâu sắc về quyền dân tộc, quốc gia:
    – Dân tộc gắn liền với lãnh thổ: “Núi sông bờ cõi đã chia”.
    – Dân tộc gắn liền với văn hiến: “Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”.
    – Dân tộc gắn liền với phong tục tập quán: “Phong tục Bắc Nam cũng khác”.
    – Dân tộc gắn liền với lịch sử: “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập”.
    – Dân tộc gắn liền với chủ quyền: “Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”.
    – Dân tộc gắn liền với yếu tố con người, hào kiệt: “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau/ Song hào kiệt đời nào cũng có”.
    Như vậy, so sánh với quan niệm về quốc gia, dân tộc của Lý Thường Kiệt trong văn bản
    Nam quốc sơn hà, quan niệm về dân tộc của Nguyễn Trãi đã có bước phát triển đáng kể. Trong Nam quốc sơn hà, Lý Thường Kiệt chỉ mới nêu hai yếu tố lãnh thổ, chủ quyền ("Nam quốc sơn hà nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”), đến Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi còn thêm những yếu tố cơ bản, quan trọng khác: văn hiến, phong tục, lịch sử.... Việc coi văn hiến, lịch sử là những yếu tố quan trọng để xác định độc lập dân tộc của Đại Việt khẳng định sự tồn tại ngang hàng của một quốc gia phương Nam với quốc gia phương Bắc. Đó thực sự là một nhận thức rất sâu sắc, tiến bộ của Nguyễn Trãi về quốc gia, dân tộc.
    1/1

  • Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu:
    BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO
    NGUYỄN TRÃI
    1. Từng nghe:
    Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
    Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
    Như nước Đại Việt ta từ trước,
    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
    Núi sông bờ cõi đã chia,
    Phong tục Bắc Nam cũng khác.
    Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
    Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
    Song hào kiệt đời nào cũng có.
    Vậy nên:
    Lưu Cung tham công nên thất bại,
    Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
    Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
    Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
    Việc xưa xem xét,
    Chứng cớ còn ghi.
    2. Vừa rồi:
    Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
    Để trong nước lòng dân oán hận.
    Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
    Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
    Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
    Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
    Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
    Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
    Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
    Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
    Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
    Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
    Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
    Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
    Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
    Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
    Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán;
    Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
    Nặng nề những nỗi phu phen,
    Tan tác cả nghề canh cửi.
    Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
    Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
    Lẽ nào trời đất dung tha,
    Ai bảo thần nhân chịu được?
    3. Ta đây:
    Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
    Chốn hoang dã nương mình.
    Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
    Căm giặc nước thề không cùng sống.
    Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;
    Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
    Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;
    Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ.
    Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
    Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.
    Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
    Chính lúc quân thù đương mạnh.
    Lại ngặt vì:
    Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
    Nhân tài như lá mùa thu.
    Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
    Nơi duy ác hiếm người bàn bạc.
    Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông;
    Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành phía tả.
    Thế mà:
    Trông người người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi,
    Tự ta ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
    Phần thì giận hung đồ ngang dọc,
    Phần thì lo vận nước khó khăn.
    Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
    Khi Khôi Huyện quân không một đội.
    Trời thử lòng trao cho mệnh lớn,
    Ta gắng chí khắc phục gian nan.
    Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới ;
    Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
    Thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh;
    Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
    Trọn hay:
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo.
    Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
    Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay?.
    Sĩ khí đã hăng,
    Quân thanh càng mạnh.
    Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
    Lý An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân.
    Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại;
    Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
    Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm;
    Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
    Phúc tâm quân giặc, Trần Hiệp đã phải bêu đầu;
    Mọt gian kẻ thù, Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
    Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy;
    Mã Anh cứu trận đánh, mà quân ta hăng lại càng hăng.
    Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt;
    Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt, tâm công.
    Tưởng chúng biết lẽ ăn năn, nên đã thay lòng đổi dạ;
    Ngờ đâu vẫn đương mưu tính, lại còn chuốc tội gây oan.
    Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác;
    Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
    Bởi thế:
    Thằng nhãi con Tuyên Đức, động binh không ngừng;
    Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy.
    Đinh Mùi tháng Chín Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn tiến lại;
    Năm ấy tháng Mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
    Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong;
    Ta sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực.
    Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
    Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu,
    Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,
    Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
    Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá,
    Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau.
    Lại thêm quân bốn mặt vây thành,
    Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc.
    Sĩ tốt kén người hùng hổ,
    Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh.
    Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
    Voi uống nước, nước sông phải cạn.
    Đánh một trận, sạch không kình ngạc,
    Đánh hai trận, tan tác chim muông.
    Nổi gió to trút sạch lá khô,
    Thông tổ kiến phá toang để vỡ.
    Đô đốc Thối Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
    Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
    Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường;
    Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước.
    Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,
    Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.
    Bị ta chẹn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật;
    Thua quân ta ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
    Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc;
    Thành Đan Xá thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
    Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp ;
    Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng.
    Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng;
    Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh.
    Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc;
    Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
    Họ đã tham sống sợ chết, mà hoà hiếu thực lòng;
    Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
    Chẳng những mưu kế kì diệu,
    Cũng là chưa thấy xưa nay.
    4. Xã tắc từ đây vững bền,
    Giang sơn từ đây đổi mới.
    Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
    Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
    Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
    Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.
    Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy.
    Than ôi !
    Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm;
    Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.
    Xa gần bá cáo.
    Ai nấy đều hay.
    (Theo bản dịch của Bùi Kỉ, in trong Ngữ văn 10, tập hai NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2021, tr. 17– 22)
    Nêu cảm nhận của em về giọng điệu ở đoạn cuối của văn bản (từ “Xã tắc từ đây vững bền” đến hết). Theo em, giọng điệu đoạn này có sự thay đổi như thế nào so với những đoạn trên và vì sao lại có sự thay đổi đó?

    Đáp án

    Giải thích
    Đoạn cuối bài cáo, giọng văn trầm lắng, tự hào bởi những lời tổng kết lịch sử mang đậm suy tư.
    – Đó là lời tuyên bố trang nghiêm, trịnh trọng về nền độc lập dân tộc, chủ quyền đất nước đã được lập lại: đất nước giang sơn từ nay hoà bình đổi mới vững bền, tương lai sẽ huy hoàng rực rỡ.
    – Tác giả nhắc đến sức mạnh của truyền thống, công lao của tổ tiên “nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ” và quy luật thịnh – suy – bĩ – thái mang đậm tính triết lí phương Đông để khẳng định niềm tin và quyết tâm xây dựng đất nước của toàn dân tộc.
    Như vậy, giọng điệu của bài cáo ở phần cuối văn bản đã có sự biến đổi phù hợp về nội dung biểu đạt so với những đoạn trên (giọng điệu tự hào khi nói về truyền thống văn hoá, anh hùng lâu đời của dân tộc; giọng điệu căm phẫn sục sôi trước tội ác của kẻ thù; giọng tha thiết, cảm thương trước nỗi đau lầm than của nhân dân....).
    1/1

  • Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu:
    BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO
    NGUYỄN TRÃI
    1. Từng nghe:
    Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
    Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
    Như nước Đại Việt ta từ trước,
    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
    Núi sông bờ cõi đã chia,
    Phong tục Bắc Nam cũng khác.
    Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
    Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
    Song hào kiệt đời nào cũng có.
    Vậy nên:
    Lưu Cung tham công nên thất bại,
    Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
    Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
    Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
    Việc xưa xem xét,
    Chứng cớ còn ghi.
    2. Vừa rồi:
    Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
    Để trong nước lòng dân oán hận.
    Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
    Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
    Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
    Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
    Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
    Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
    Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
    Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
    Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
    Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
    Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
    Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
    Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
    Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
    Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán;
    Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
    Nặng nề những nỗi phu phen,
    Tan tác cả nghề canh cửi.
    Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
    Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
    Lẽ nào trời đất dung tha,
    Ai bảo thần nhân chịu được?
    3. Ta đây:
    Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
    Chốn hoang dã nương mình.
    Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
    Căm giặc nước thề không cùng sống.
    Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;
    Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
    Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;
    Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ.
    Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
    Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.
    Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
    Chính lúc quân thù đương mạnh.
    Lại ngặt vì:
    Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
    Nhân tài như lá mùa thu.
    Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
    Nơi duy ác hiếm người bàn bạc.
    Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông;
    Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành phía tả.
    Thế mà:
    Trông người người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi,
    Tự ta ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
    Phần thì giận hung đồ ngang dọc,
    Phần thì lo vận nước khó khăn.
    Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
    Khi Khôi Huyện quân không một đội.
    Trời thử lòng trao cho mệnh lớn,
    Ta gắng chí khắc phục gian nan.
    Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới ;
    Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
    Thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh;
    Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
    Trọn hay:
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo.
    Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
    Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay?.
    Sĩ khí đã hăng,
    Quân thanh càng mạnh.
    Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
    Lý An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân.
    Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại;
    Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
    Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm;
    Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
    Phúc tâm quân giặc, Trần Hiệp đã phải bêu đầu;
    Mọt gian kẻ thù, Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
    Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy;
    Mã Anh cứu trận đánh, mà quân ta hăng lại càng hăng.
    Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt;
    Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt, tâm công.
    Tưởng chúng biết lẽ ăn năn, nên đã thay lòng đổi dạ;
    Ngờ đâu vẫn đương mưu tính, lại còn chuốc tội gây oan.
    Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác;
    Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
    Bởi thế:
    Thằng nhãi con Tuyên Đức, động binh không ngừng;
    Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy.
    Đinh Mùi tháng Chín Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn tiến lại;
    Năm ấy tháng Mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
    Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong;
    Ta sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực.
    Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
    Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu,
    Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,
    Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
    Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá,
    Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau.
    Lại thêm quân bốn mặt vây thành,
    Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc.
    Sĩ tốt kén người hùng hổ,
    Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh.
    Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
    Voi uống nước, nước sông phải cạn.
    Đánh một trận, sạch không kình ngạc,
    Đánh hai trận, tan tác chim muông.
    Nổi gió to trút sạch lá khô,
    Thông tổ kiến phá toang để vỡ.
    Đô đốc Thối Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
    Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
    Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường;
    Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước.
    Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,
    Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.
    Bị ta chẹn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật;
    Thua quân ta ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
    Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc;
    Thành Đan Xá thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
    Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp ;
    Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng.
    Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng;
    Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh.
    Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc;
    Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
    Họ đã tham sống sợ chết, mà hoà hiếu thực lòng;
    Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
    Chẳng những mưu kế kì diệu,
    Cũng là chưa thấy xưa nay.
    4. Xã tắc từ đây vững bền,
    Giang sơn từ đây đổi mới.
    Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
    Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
    Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
    Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.
    Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy.
    Than ôi !
    Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm;
    Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.
    Xa gần bá cáo.
    Ai nấy đều hay.
    (Theo bản dịch của Bùi Kỉ, in trong Ngữ văn 10, tập hai NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2021, tr. 17– 22)
    Bình Ngô đại cáo là áng văn thể hiện sâu sắc truyền thống yêu nước của dân tộc ta. Em hãy phân tích những biểu hiện nổi bật của tinh thần yêu nước được thể hiện trong văn bản.

    Đáp án

    Giải thích
    Cảm hứng yêu nước là một trong hai nguồn cảm hứng lớn trong văn học Việt Nam nói chung và văn học Việt Nam thời trung đại nói riêng. Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là tác phẩm tiêu biểu cho nguồn cảm hứng đó.
    Cảm hứng yêu nước của tác phẩm được thể hiện ở những phương diện sau:
    – Khẳng định độc lập chủ quyền của dân tộc, ý thức tự cường, tự tôn, niềm tự hào về nền văn hiến, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, sức mạnh dân tộc,…
    – Căm thù giặc, quyết tâm vượt qua khó khăn để kháng chiến.
    – Ca ngợi, tự hào về chiến thắng hào hùng của cuộc khởi nghĩa.
    – Khát vọng hoà bình muôn thuở, niềm tin và quyết tâm xây dựng “đài xuân dân tộc”, mở ra kỉ nguyên mới cho đất nước.
    1/1

hoclieuthongminh.com © 2022

  • Sitemap
  • Home
  • Home